Những bài thơ được chạm khắc trên các kiến trúc quan trọng. Ảnh: Hải Trung
Thơ được thể hiện trên các kiến trúc cung đình Huế khá đa dạng về phương thức, chất liệu, kiểu dáng và về cả vị trí tồn tại. Thơ được khắc chìm, chạm nổi trên các liên ba, đố bản bằng gỗ; được thếp vàng chữ, nền sơn các màu; viết trên nền đồng rồi tráng men (pháp lam) với nhiều màu sắc. Hiện nay, trên hệ thống kiến trúc này có trên 4000 ô thơ chữ Hán, thật sự trở thành một bảo tàng thơ có một không hai trên thế giới.
Thơ trên kiến trúc góp phần làm nên phần hồn, làm tăng tính văn hóa cho các công trình thời Nguyễn, có những giá trị gắn kết với những nội dung tư tưởng nhất định. Chúng vừa biểu hiện đặc điểm thẩm mỹ của kiến trúc vừa tồn tại trong tư cách là một văn bản nghệ thuật. Đó cũng là bản chất tâm hồn của chủ nhân với những khát vọng và ước mơ của một triều đại. Thơ đã trở thành thông điệp để nối quá khứ và hiện tại, quá khứ và tương lai trong một hành trình bất tận của cuộc kiếm tìm và khám phá cái đẹp.
Tháng 5/2016, Ủy ban Ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sẽ nhóm họp tại Huế để thảo luận những vấn đề liên quan đến bảo tồn di sản tư liệu thế giới. Dịp này dự kiến sẽ thông qua các đề cử di sản tư liệu mới, trong đó có thơ trên kiến trúc cung đình Huế. Chúng tôi xin giới thiệu một số bài thơ về đề tài vịnh cảnh và mùa xuân qua các chất liệu và hình thức thể hiện khác nhau tại các kiến trúc cung đình với phần dịch thơ của Hải Trung, Vĩnh Cao và Nguyễn Tài Cẩn.
1. Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt trên bờ nóc kiến trúc Ngọ Môn có hình thức chữ chân, viết trên nền pháp lam (ảnh 2):
Liên trì trình diễm sắc
Quế điện tống thanh hương
Viên lâm ngưng ngọc lộ
Tiêu hán diệu kim quang
Ao sen lên sắc thắm
Điện quế ngát hương thanh
Sương ngọc khắp vườn ngự
Ảo diệu ánh trăng ngân
2. Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt trên liên ba kiến trúc điện Thái Hòa có hình thức chữ chân, chạm nổi thếp vàng trên nền sơn son:
Thái bình tân chế độ
Hiên khoát cựu quy mô
Văn vật thanh danh hội
Xuân phong mãn đế đô
Thái bình chế độ mới
Mở rộng quy mô xưa
Văn vật cùng tụ hội
Gió xuân tràn đế đô
3. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt trên liên ba kiến trúc điện Ngưng Hy (lăng Đồng Khánh) có hình thức chữ chân, chạm chìm thếp vàng trên nền sơn son:
Điều phong ứng luật khải phương thần
Liễu thúy hoa tiên thứ đệ trần
Thượng uyển tân oanh tải nhất chuyển
Càn khôn vũ trụ tổng giai xuân.
Gió thuận đẩy hương hợp đúng thời
Trước sau liễu biếc với hoa tươi
Chim oanh ríu rít vang vườn ngự
Vũ trụ màu xuân mãi đất trời.
4. Bài thơ thất ngôn bát cú luật thi trên đố bản kiến trúc điện Long An có hình thức chữ chân, khảm xà cừ trên nền gỗ. Đây là bài thơ “Vũ trung sơn thủy” (Non nước trong mưa) của vua Thiệu Trị. Bài thơ là một hình thức chơi chữ rất tinh xảo, đạt đến đỉnh cao trí tuệ của ngôn ngữ. Từ 56 chữ, hoàng đế Thiệu Trị đã tổ chức sắp đặt theo đồ hình bát quái để đọc theo lối “hồi văn liên hoàn” thành 64 bài thơ (ảnh 1). Dưới đây là một bài liên hoàn trong vần CANH:
Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn
Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh
Sơn tỏa ám vân thôi trận trận
Lãng sinh khiêu ngọc địch thanh thanh
Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận
Dạng dạng ba châu liễu mậu vinh
Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn
Hướng lâm song tiễn yến phi khinh
Tròn vây gió nổi triều lan ngập
Rộng thoáng mưa vờn nước biếc xanh
Non kín đen trời mây cuốn gấp
Sóng dâng gieo ngọc tiếng vang quanh
Tuôn theo suối thấm rêu dâm dấp
Bóng dợn cồn vươn cỏ mướt xinh
Buồn giải rỗi câu thuyền lướt khắp
Động về chia dãy én bay nhanh.
5. Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt tại liên ba đầu hồi điện Sùng Ân (lăng Minh Mạng) có hình thức chữ chân, viết trên nền pháp lam:
Quế tống thanh hương viễn,
Mai truyền xuân tín tiên.
U lan nhụy chính uẩn,
Thùy liễu diệp do tiên.
Quế đẩy hương thoang thoảng,
Mai chuyển đến khí xuân.
Thâm sâu lan kín nhụy,
Buông rũ liễu còn tân.
6. Bài thơ ngũ ngôn bát cú phân bố trên 4 ô tại liên ba điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị), có hình thức chữ chân khắc chìm thếp vàng trên nền sơn son:
Hà xứ xuân quang hảo,
Xuân quang vũ hậu giang.
Y liên hồi ngạn đẩu,
Trừng trạm toại lưu lung.
Thất luyện thiên tầm triển,
Lưu ly vạn khoảnh phùng.
Liễu đê ki điếu đĩnh,
Đào lãng phiếm du sang.
Nơi nào cảnh xuân đẹp,
Sau mưa cảnh trên sông.
Lăn tăn lan quanh bến,
Cuộn cuộn chảy xuôi dòng.
Mặt nước dài muôn dặm,
Vạn điểm sáng lanh long.
Liễu đê thuyền câu buộc,
Bè vượt sóng mênh mông.
Nguyễn Phước Hải Trung